Dê là loài động vật nhai lại, thuộc họ Bovidae (họ trâu bò), guốc chẵn. Từ lâu đời, dê được nuôi để lấy thịt, sữa và da. Dê không chỉ là vật nuôi gần gũi mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh trong văn hóa phương Tây và phương Ðông.

Dê là loài động vật nhai lại, thuộc họ Bovidae (họ trâu bò), guốc chẵn. Từ lâu đời, dê được nuôi để lấy thịt, sữa và da. Dê không chỉ là vật nuôi gần gũi mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh trong văn hóa phương Tây và phương Ðông. Dê không chỉ là món ăn khoái khẩu, mà trong y học các bộ phận từ con dê đều có thể được chế thành thuốc bổ hoặc thuốc chữa bệnh mang lại nhiều giá trị cho sức khỏe.

Thịt dê (dương nhục)

Thịt dê có vị ngọt, tính nóng (cam nhiệt) thuộc hỏa, không độc. Có tác dụng bổ hư lao, ích khí huyết, tráng dương đạo, ấm thận, ấm trung tiêu, khai vị kiện tỳ, thông khí phát sang (làm phát mụn nhọt).

Theo Thập tễ viết: bổ có thể làm hết hư nhược, nhân sâm, dương nhục đều là những thứ để bổ. Nhân sâm bổ khí, dương nhục bổ hình, đều bổ huyết hư, vì dương sinh thì âm trưởng (khí thuộc dương, huyết thuộc âm). Chứng hư lao, gầy yếu, đau lưng mỏi gối, thận dương hư (đàn ông di tinh liệt dương, đàn bà khí hư bạch đới), khí huyết hư tổn, tự hãn, có thể ăn liên tục 30-40g/ngày thịt dê chế biến thành các món ăn, có thể trị được.

Thịt dê có thể chế biến thành món ăn cung đình số 1 cho sức khỏe (Ngự tiệc) đó là món thố tiềm gồm thịt dê, nhân sâm (hoặc sâm ngọc linh), đông trùng hạ thảo, nhung hươu ăn cùng với một số loại nấm quý... Món này đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực và tăng hormon sinh dục cho cả nam lẫn nữ, phục hồi sức khỏe kỳ diệu khi mắc những bệnh mạn tính.

Hải Thượng Lãn Ông khuyên ăn thịt dê tái với gừng, hành, tỏi và hẹ. Có tác dụng tiêu thực và làm ấm đan điền (là nơi xuất phát của mạch xung, nhâm, đốc và thông hai mạch xung nhâm, nhờ vậy lục phủ ngũ tạng đều được thụ khí).

Đương quy sinh nhượng, dương nhục thang: gồm có đương quy, sinh khương (gừng) và dương nhục, có tác dụng bổ khí huyết (kim quỹ yếu lược).

Phụ nữ khí huyết hư yếu hay sảy thai hoặc phụ nữ sau sinh dùng thịt dê với các thang thuốc bổ khí huyết dùng rất tốt.

Các bộ phận của dê đều có tác dụng chữa bệnh.

Gan dê (dương can)

Gan dê vị đắng tính lạnh (khổ hàn), sắc xanh, bổ can minh mục (sáng mắt). Dùng gan dê lấy tả làm bổ (dĩ tả vi bổ). Dương can hoàn, gia hoàng liên trị bệnh ở mắt.

Chữa chứng can phong hư nhiệt, mắt có màng đỏ, sau khi hết sốt mắt bị mờ. Trường hợp trẻ em bị quáng gà dùng gan dê rất tốt. Luộc hoặc hấp 40 - 50g gan dê ăn hằng ngày.

Chữa can huyết hư: cơ thể suy nhược, chóng mặt, mờ mắt: nấu cháo gan dê ăn hằng ngày.

Chữa can hỏa vượng: đau đầu, hoa mắt, mắt đỏ, chóng mặt: gan dê 60g, cốc tinh thảo 10g, cúc hoa 10g sắc kỹ, ngày uống 3 lần.

Mật dê (dương đởm)

Mật dê vị đắng tính lạnh (khổ hàn) có tác dụng tiêu viêm, minh mục (chữa đau mắt, mờ mắt). Lý Thời Trân viết: can khai khiếu ra mắt, lượng dịch mật (đởm trấp) giảm làm mắt mờ đi, bởi đởm là tinh hoa từ can, nên chữa được các bệnh về mắt.

Trị viêm mắt bờ mi, mắt có màng đỏ, màng trắng, vào tháng chạp lấy mật dê, bọc túi giấy để vào trong lồng, treo dưới thềm, đợi sương xuống, sau đó quét lên mắt hoặc hòa loãng mật dê với nước sạch để nhỏ mắt hằng ngày.

Lấy mật ong cho vào túi mật dê nấu chín, để khô, nghiền thành cao, mỗi lần ngậm một chút để thanh can, dưỡng huyết. Thứ cao này tên là “Nhị bách vị thảo hoa cao”, bởi con dê ăn trăm thứ cỏ, con ong hút mật trăm thứ hoa.

Dùng mật dê để bôi, xoa bóp vào những vết bầm tụ máu do bị ngã, bị thương.

Xương dê (dương cốt)

Xương dê vị ngọt, tính ấm (cam ôn), có công dụng bổ thận, cường gân cốt thường dùng dưới dạng bột nướng hoặc nấu thành cao.

Dùng xương dê, tốt nhất là xương cẳng chân (hĩnh cốt) nướng lên, tán thành bột mịn. Hoặc xương dê rửa sạch, bỏ phần xương xốp, ngâm trong rượu gừng đem nấu một ngày đêm, lấy nước, cô đặc thành cao. Bột nướng và cao xương dê dùng chữa thận hư, tỳ vị hư nhược, phụ nữ sau khi đẻ khí huyết hư...

Tiết dê (dương huyết)

Tiết dê vị mặn, tính bình có công dụng bổ huyết, chỉ huyết, giải độc.

Huyết dương tửu: gồm dương huyết, đại hồi, quế chi, sinh khương, xuyên khung, trần bì. Bài thuốc này có tác dụng hành khí, hoạt huyết.